ads-banner

Wednesday, February 27, 2019

ACID AMINOCAPROIC Tên chung quốc tế: Aminocaproic acid. Mã ATC: B02AA01. Loại thuốc: Thuốc kháng tiêu fibrin (Thuốc cầm máu). Dạng thuốc và hàm lượng Sirô: 1,25 g/5 ml. Dung dịch uống: 1,25 g/5 ml. Viên nén: 500 mg. Thuốc tiêm để pha truyền tĩnh mạch: 250 mg/ml, lọ 20 ml (5 g). Dược lý và cơ chế tác dụng Acid aminocaproic là một acid monoamino carboxylic tổng hợp, có tác dụng ức chế tiêu cục máu đông (tiêu fibrin), chủ yếu thông qua ức chế các hoạt chất của plasminogen và cũng ức chế tác dụng của plasmin. Khi dùng liều thấp, thuốc ức chế các chất hoạt hóa plasminogen nên làm giảm chuyển đổi plasminogen thành plasmin (fibrinolysin); chất này là một enzym phân giải các cục fibrin đông và các protein khác của huyết tương bao gồm một số các yếu tố đông máu như yếu tố V, VIII. Khi dùng liều cao, thuốc có tác dụng trực tiếp kháng plasmin, nên đã hủy plasmin gây tiêu cục máu còn dư thừa. In vitro, hiệu lực tiêu fibrin của acid aminocaproic bằng khoảng 1/5 đến 1/10 của acid tranexamic. Dược động học Hấp thu: Acid aminocaproic hấp thu nhanh và hoàn toàn sau khi uống. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong vòng 2 giờ. Uống 5 g, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt trong vòng 1 giờ khoảng 164 microgam/ml. Tiêm tĩnh mạch 1 liều đơn 10 g acid aminocaproic, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt nhất thời 600 microgam/ml. Để duy trì ức chế tăng tiêu fibrin, cần thiết phải có nồng độ thuốc trong huyết tương khoảng 130 microgam/ml. Muốn vậy phải tiêm tĩnh mạch một liều 5 g, sau đó cho truyền tĩnh mạch liên tục 1 - 1,25 g/giờ. Nồng độ thuốc trong huyết tương ở người suy thận nặng cao hơn so với người bình thường. Phân bố: Sau khi dùng thuốc kéo dài, acid aminocaproic phân bố khắp cơ thể. Thể tích phân bố sau khi uống khoảng 23 lít và sau khi tiêm tĩnh mạch khoảng 30 lít. Thuốc hình như không gắn với protein huyết tương. Không biết thuốc có vào sữa hay không. Thuốc phần lớn không chuyển hoá. Thải trừ: Acid aminocaproic có nửa đời thải trừ cuối khoảng 2 giờ. Thải trừ chủ yếu là qua nước tiểu. Trong một nghiên cứu số lượng nhỏ bệnh nhân cho thấy thuốc thải trừ 40 đến 65% dưới dạng không biến đổi, 11% là chất chuyển hóa acid adipic. Thuốc có thể loại bỏ bằng thẩm phân máu và màng bụng. Chỉ định Phòng và điều trị chảy máu kết hợp với tiêu fibrin quá mức, thường gặp trong phẫu thuật tim, cắt bỏ tuyến tiền liệt, thận hoặc trong một số bệnh về máu (thiếu máu bất sản); bong rau non, xơ gan, bệnh ung thư, tiêu hủy fibrin niệu. Điều trị và dự phòng chảy máu nặng ở người bị bệnh ưa chảy máu (hemophilia) khi làm các thủ thuật ở miệng hoặc răng. Dự phòng chảy máu dưới màng nhện tái phát. Trong các tình huống nặng, đe dọa tính mạng, có thể cần phải truyền máu tươi toàn phần, truyền fibrinogen và các biện pháp cấp cứu khác. Phòng chảy máu trong phù mạch di truyền (tác dụng khiêm tốn). Chống chỉ định Đông máu rải rác trong nội mạch. Mẫn cảm với acid aminocaproic và các thành phần có trong thuốc. Nguy cơ huyết khối nếu không có liệu pháp heparin. Dùng thuốc tiêm cho trẻ đẻ non (sản phẩm chứa rượu benzyl). Thận trọng Chỉ được dùng acid aminocaproic trong những trường hợp tình trạng lâm sàng cấp tính, đe dọa tính mạng khi chảy máu do tăng hoạt động của hệ thống tiêu fibrin. Chỉ dùng thuốc sau khi kết quả xét nghiệm đã xác định có sự tăng tiêu fibrin. Dùng thuốc này phải kèm với xét nghiệm để xác định mức độ tiêu fibrin hiện có. Khi không biết chắc chắn nguyên nhân chảy máu là do tiêu fibrin nguyên phát hay là do đông máu nội mạch rải rác thì cần phân biệt rõ trước khi dùng acid aminocaproic. Không được dùng acid aminocaproic trong trường hợp đông máu nội mạch rải rác nếu không kèm liệu pháp heparin. Dùng thận trọng ở người có bệnh thận, tim và gan, tăng urê huyết. Liệu pháp acid aminocaproic đã từng gây tắc thận do huyết khối trong mao mạch cầu thận hoặc do cục máu đông trong bể thận và niệu quản ở người bệnh bị chảy máu đường tiết niệu trên, vì vậy không dùng thuốc này cho người đái ra máu có nguồn gốc từ đường tiết niệu trên, trừ khi đã cân nhắc lợi ích lớn hơn thiệt hại có thể gặp. Nếu có bệnh lý cơ - xương như yếu cơ, đau cơ, mệt nhọc xảy ra ở người bệnh đang dùng acid aminocaproic thì phải xem xét khả năng cơ tim cũng có thể bị thương tổn. Phải theo dõi nồng độ enzym creatin phosphokinase trong huyết thanh của người bệnh đang điều trị dài ngày với thuốc này, nếu thấy tăng rõ, phải ngừng thuốc. Tránh tiêm tĩnh mạch nhanh do thuốc có thể gây ra hạ huyết áp, chậm nhịp tim hay loạn nhịp tim. Có thể bị viêm tĩnh mạch huyết khối do tiêm không đúng kỹ thuật. Tuy acid aminocaproic thường được dùng phối hợp cùng với yếu tố đông máu thay thế trong điều trị phẫu thuật ở người bị bệnh ưa chảy máu, nhưng dùng đồng thời như vậy làm tăng nguy cơ huyết khối. Súc miệng bằng acid aminocaproic có thể giảm thiểu biến chứng này khi làm các thủ thuật trong miệng hoặc nhổ răng. Một số nhà huyết học khuyên nên dùng acid aminocaproic 8 giờ sau khi dùng các yếu tố đông máu. Không dùng đồng thời với phức hợp yếu tố IX hoặc phức hợp kháng ức chế đông máu vì tăng nguy cơ huyết khối. Thời kỳ mang thai Acid aminocaproic đã gây quái thai ở chuột. Chưa có số liệu hay nghiên cứu chứng minh tác hại lên thai nhi hay khả năng sinh sản khi dùng thuốc cho phụ nữ mang thai, chỉ dùng thuốc khi đã cân nhắc lợi ích hơn hẳn rủi ro cho thai nhi. Thời kỳ cho con bú Chưa biết thuốc có bài tiết qua sữa mẹ hay không, cần sử dụng thận trọng. Tác dụng không mong muốn (ADR) Thuốc thường dung nạp tốt, hiếm khi xảy ra ADR nhưng cũng đã thấy ADR do dùng liều cao trên 16 g/ngày và kéo dài. Toàn thân: Phù, nhức đầu, khó ở. Phản ứng mẫn cảm: Dị ứng và choáng phản vệ. Tại chỗ tiêm: Đau và viêm tĩnh mạch. Tim mạch: Nhịp chậm, hạ huyết áp, huyết khối. Hệ tiết niệu: Tắc bàng quang do cục máu đông, tăng urê, hiếm thấy bị suy thận. Tiêu hoá: Đau bụng, ỉa chảy, buồn nôn, nôn. Huyết học: Mất bạch cầu hạt, rối loạn đông máu, giảm tiểu cầu. Cơ - xương: Tăng creatinin phosphokinase, yếu cơ, bệnh lý cơ, tiêu cơ vân, viêm cơ. Thần kinh: Lú lẫn, co giật, ảo giác, tăng áp lực nội sọ, đột quỵ, chóng mặt, ngất. Hô hấp: Khó thở, ngạt mũi. Da: Ngứa, ban. Giác quan: Ù tai, giảm thính lực. Khi dùng trên 24 g/ngày, thời gian chảy máu bị kéo dài dù không thấy thay đổi đáng kể về chức năng của tiểu cầu. Hướng dẫn cách xử trí ADR Các ADR thường nhẹ, rất hiếm khi phải ngừng thuốc. Ngừng thuốc rồi điều trị triệu chứng nếu cần. Các ADR thường mất đi sau 1 - 2 ngày ngừng thuốc. Có thể tránh được các ADR khi điều chỉnh liều. Nếu thấy đau cơ, yếu cơ, cần làm xét nghiệm CPK, nếu thấy tăng cao, có thể phải ngừng thuốc. Acid aminocaproic có thể loại ra khỏi cơ thể bằng thẩm phân phúc mạc. Liều lượng và cách dùng Cách dùng: Acid aminocaproic được dùng theo đường uống hoặc truyền tĩnh mạch. Không được tiêm tĩnh mạch nhanh dung dịch thuốc chưa pha loãng. Khi truyền, thuốc được pha loãng bằng cách lấy 10 - 20 ml (4 - 5 g) pha trong 250 ml dịch truyền natri clorid 0,9%, glucose 5% hoặc Ringer. Phải kiểm tra bằng mắt, dung dịch phải không được có các hạt nhỏ hoặc biến màu. Liều lượng: Hội chứng chảy máu cấp tính do tăng tiêu fibrin: Truyền tĩnh mạch: Người lớn truyền 4 - 5 g trong giờ đầu, sau đó tiếp tục truyền 1 - 1,25 g/giờ (4 - 5 ml thuốc pha loãng thành 50 ml) trong khoảng 8 giờ hoặc cho đến khi kiểm soát được tình hình chảy máu. Liều quá 30 g/ngày không được khuyến cáo. Mặc dù độ an toàn và hiệu quả của acid aminocaproic ở trẻ em chưa được xác định, thuốc đã được tiêm truyền cho trẻ em với liều 100 mg/kg hoặc 3 g/m2 diện tích cơ thể trong giờ đầu, sau đó tiếp tục truyền 33,3 mg/kg mỗi giờ hoặc 1 g/m2 mỗi giờ. Tổng liều không vượt quá 18 g/m2 trong 24 giờ. Uống: Uống viên nén hoặc sirô acid aminocaproic liều giống như đường truyền tĩnh mạch. Giờ đầu cho uống 10 viên hoặc 4 thìa cà phê sirô (5 g) acid aminocaproic, sau đó tiếp tục uống mỗi giờ 2 viên (1 g) hoặc 1 thìa cà phê sirô (1,25 g) trong khoảng 8 giờ hoặc cho đến khi kiểm soát được chảy máu. Dự phòng và điều trị chảy máu sau phẫu thuật ở răng với người bị bệnh ưa chảy máu: Uống 75 mg/kg (tới 6 g) ngay sau khi phẫu thuật, sau đó cứ 6 giờ một lần, trong 7 - 10 ngày. Hoặc: Súc miệng với 5 ml siro (1,25 g) trong 30 giây, sau đó nhổ đi, 4 lần mỗi ngày trong 7 - 10 ngày. Có thể nuốt một lượng nhỏ thuốc, ngoại trừ trường hợp dùng ở ba tháng đầu và giữa thai kỳ. Phòng chảy máu mắt thứ phát ở bệnh nhân xuất huyết tiền phòng do chấn thương: Uống 100 mg/kg (tới 5 g/liều), cứ 4 giờ 1 lần, tối đa 30 g/ngày, trong 5 ngày. Phòng chảy máu trong phù mạch di truyền: Uống 1 g, 3 - 4 lần/ ngày. Chảy máu dưới màng nhện tái phát: Truyền tĩnh mạch hoặc uống 36 g/ngày trong 10 ngày. Có thể tiếp tục điều trị bằng đường uống. Người suy thận: Cần giảm liều (giảm 15 - 25% liều ở người bình thường). Tương tác thuốc Có tác dụng đối kháng khi dùng acid aminocaproic cùng các thuốc làm tiêu huyết khối (alteplase, anistreplase, streptokinase, urokinase) nhưng lại có tác dụng cộng hợp với các thuốc thúc đẩy quá trình đông máu nên cần thận trọng. Estrogen và thuốc tránh thai chứa estrogen dùng cùng với acid aminocaproic có thể làm tăng khả năng tạo huyết khối. Với liều trên 24 g/ngày, thuốc có ảnh hưởng đến xét nghiệm về thời gian chảy máu. Thận trọng khi dùng đồng thời với tretinoin đường uống vì có thể gây huyết khối trong vi mạch. Độ ổn định và bảo quản Bảo quản ở nhiệt độ 15 tới 30 o C, nơi khô mát, tránh ánh sáng trực tiếp. Không được để đông lạnh thuốc tiêm hoặc dung dịch uống. Quá liều và xử trí Thông tin nhiễm độc cấp ở người dùng acid aminocaproic còn hạn chế. Không rõ liều nào hoặc nồng độ nào của thuốc trong các dịch cơ thể gây nhiễm độc hoặc quá liều. Trong khi một người bệnh có thể dung nạp được acid aminocaproic với liều cao tới 100 g thì suy thận cấp đã từng xảy ra sau một liều 12 g. Biểu hiện quá liều có thể từ không có phản ứng gì cho đến hạ huyết áp nhất thời hoặc suy thận cấp nặng dẫn đến tử vong. Co giật đã xảy ra ở một người bệnh có tiền sử u não và co giật khi dùng cả liều 8 g tiêm ngay 1 lần. Nhà sản xuất thông báo, chưa biết có thuốc nào giải độc quá liều acid aminocaproic. Tuy nhiên, thuốc có thể loại bằng thẩm phân lọc máu. Thông tin quy chế Acid aminocaproic có trong Danh mục thuốc thiết yếu tân dược ban hành lần thứ VI, năm 2013 và Danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế, năm 2015. Tên thương mại Plaslloid.

Monday, December 25, 2017

Cạo gió: Những gì bạn cần biết

xem lại lần cuối
  1. Tổng quan
  2.  
  3. Sử dụng
  4.  
  5. Lợi ích
  6.  
  7. Tác dụng phụ và rủi ro
  8.  
  9. Công cụ và kỹ thuật
  10.  
  11. Lấy đi
Cạo gió là một kỹ thuật được sử dụng trong y học cổ truyền Đông Á. Nó thường được dùng để điều trị đau cơ bắp và căng thẳng, nhưng đã có nghiên cứu hạn chế vào tốt như thế nào nó hoạt động. Chúng tôi tìm hiểu thêm về việc liệu gua sha có hiệu quả, và nếu có bất kỳ tác dụng phụ.
Cạo gió nhằm mục đích di chuyển năng lượng, được gọi là khí hoặc chi, xung quanh cơ thể. Việc điều trị bao gồm việc sử dụng một công cụ để chà xát da trong dài đột quỵ , áp dụng đủ áp lực để tạo ra hơi bỏng rát.
Cạo gió có thể giúp phá vỡ các mô sẹo và mô liên kết, cải thiện phong trào ở các khớp. Việc điều trị không có bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nhưng không phải là thích hợp cho những người có điều kiện y tế nhất định.

Cạo gió là gì?


Cạo gió có thể được sử dụng để điều trị đau cơ bắp và có thể phá vỡ các mô sẹo.
Cạo gió là thực tế của việc sử dụng một công cụ để tạo áp lực và cạo da để giảm đau và căng thẳng. Hành động này gây bầm tím nhạt, thường xuất hiện như những đốm màu tím hoặc đỏ gọi là ban xuất huyết hoặc sha.
Các sha tên gua - rệt gwahshah - có nguồn gốc từ Trung Quốc cho cào. Nó cũng có thể được gọi là nạo da, spooning, hoặc sử dụng danh xưng.
Theo truyền thống Trung Quốc y học, khí hoặc chi là năng lượng chảy qua cơ thể. Nhiều người tin rằng khí của một người phải được cân đối và chảy tự do để đảm bảo sức khỏe và phúc lợi của họ.
Mọi người cũng tin rằng khí có thể bị chặn, gây đau hoặc căng thẳng trong cơ bắp và khớp. Cạo gió nhằm mục đích di chuyển năng lượng chặn này để làm giảm đau nhức hoặc cứng khớp.
y học cổ truyền Đông Á cũng xem ứ máu hoặc trì trệ là nguyên nhân của sự đau đớn và bệnh tật. Mục đích khác của gua sha là để di chuyển máu gộp hoặc trì trệ để giảm các triệu chứng.
Một số vật lý trị liệu sử dụng một phiên bản của kỹ thuật được gọi là công cụ hỗ trợ huy động mô mềm (IASTM). Sử dụng một công cụ thay vì tay trong một massage cho phép một vật lý trị liệu để tạo áp lực nhiều hơn nữa.

Sử dụng

Cạo gió thường được sử dụng để làm giảm đau cơ và khớp. Điều kiện của các cơ bắp và xương được gọi là rối loạn cơ xương. Một số ví dụ bao gồm đau lưng , căng gân, và hội chứng ống cổ tay .
Các học viên cho rằng gua sha cũng có thể có lợi cho hệ thống miễn dịch và giảm viêm . Đôi khi, gua sha được sử dụng để điều trị cảm lạnh, sốt , hoặc các vấn đề với phổi.
chấn thương nhỏ cho cơ thể, chẳng hạn như các vết bầm tím do gua sha, đôi khi được gọi là microtrauma. Những tạo ra một phản ứng trong cơ thể có thể giúp để phá vỡ các mô sẹo.
Microtrauma cũng có thể giúp với xơ, đó là một sự tích tụ quá nhiều mô liên kết khi chữa lành cơ thể.
Vật lý trị liệu có thể sử dụng IASTM trên mô liên kết không hoạt động để di chuyển các khớp như nó phải. Vấn đề này có thể là do một chấn thương căng thẳng lặp đi lặp lại hoặc điều kiện khác. Cạo gió được sử dụng cùng với phương pháp điều trị khác, chẳng hạn như kéo dài và tăng cường các bài tập.

Lợi ích

Các nghiên cứu cho thấy gua sha có thể giúp những người sử dụng máy tính và bị cổ và đau vai.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu nhỏ trên nhóm người sau đây để xem gua sha hoạt động:
  • phụ nữ gần mãn kinh
  • người có cổ và đau vai từ việc sử dụng máy tính
  • cử tạ nam, để giúp phục hồi sau khi đào tạo
  • người lớn tuổi bị bệnh đau lưng
Phụ nữ phát hiện ra rằng các triệu chứng tiền mãn kinh, chẳng hạn như ra mồ hôi, mất ngủ , vàđau đầuĐã giảm sau khi gua sha.
Một nghiên cứu năm 2014 phát hiện ra rằng gua sha cải thiện phạm vi đi lại và giảm đau ở những người sử dụng máy tính thường xuyên so với nhóm đối chứng rằng không có điều trị.
Trong một nghiên cứu năm 2017 , cử tạ người đã gua sha cảm thấy rằng nâng tạ mất công sức ít hơn sau khi điều trị. Điều này có thể gợi ý rằng việc điều trị tăng tốc độ phục hồi cơ bắp.
Người cao tuổi với bệnh đau lưng được điều trị với một trong hai sha gua hoặc một gói nóng. Cả hai phương pháp điều trị nhẹ nhõm triệu chứng tốt như nhau, nhưng ảnh hưởng của gua sha kéo dài .
Sau một tuần, những người đã được điều trị gua sha báo cáo linh hoạt hơn và đau lưng ít hơn so với nhóm khác.

Tác dụng phụ và rủi ro

Cạo gió gây ra các mạch máu nhỏ ở gần bề mặt da gọi là mao mạch vỡ. Điều này tạo ra các vết bầm tím đỏ hoặc màu tím đặc biệt, được gọi là sha.
Các vết bầm tím thường mất vài ngày hoặc một tuần để chữa lành và có thể dịu dàng trong khi chữa bệnh. Mọi người có thể có một loại thuốc giảm đau over-the-counter, chẳng hạn như ibuprofen, để giúp đỡ với sự đau đớn và làm giảm sưng.
Một người nên bảo vệ các khu vực thâm tím và chăm sóc không để bump nó. Áp dụng một túi nước đá có thể giúp giảm viêm và giảm đau.
học viên sha Gua không nên phá vỡ da trong thời gian điều trị, nhưng có nguy cơ nó có thể xảy ra. da bị hỏng làm tăng khả năng nhiễm trùng, do đó, một bác sĩ gua sha nên luôn luôn khử trùng công cụ của họ giữa phương pháp điều trị.

những người có điều kiện y tế ảnh hưởng đến da hoặc tĩnh mạchCạo gió là không thích hợp cho tất cả mọi người. 
Những người không nên có gua sha bao gồm những người:
  • người dễ chảy máu
  • người uống thuốc để làm loãng máu của họ
  • người có huyết khối tĩnh mạch sâu
  • người có nhiễm trùng, khối u , hoặc vết thương chưa lành hoàn toàn
  • người có cấy ghép, chẳng hạn như một máy tạo nhịp tim hoặc máy khử rung nội bộ

Là gua sha đau đớn?

Điều trị không phải là đau đớn, nhưng gua sha cố tình gây bầm tím, có thể gây khó chịu cho một số người. Những vết bầm tím sẽ lành trong vòng vài ngày.

công cụ sha gua và kỹ thuật


Một tổ chức công cụ tay với các cạnh tròn được sử dụng trong gua sha.
Theo truyền thống, một cái muỗng hoặc đồng xu sẽ được sử dụng để cạo da, nhưng trong thực tế hiện đại, các nhà trị liệu sử dụng một công cụ nhỏ cầm tay với các cạnh tròn.
công cụ sha Gua thường trọng để giúp các học viên đang làm các thủ tục để tạo áp lực.
Các học viên của y học Đông Á truyền thống nhìn thấy một số tài liệu là có một năng lượng mà sẽ hỗ trợ chữa bệnh - các tài liệu này bao gồm Biển đá, ngọc bích và thạch anh hồng. thép không gỉ cấp y tế thường được sử dụng cho IASTM hoặc khi gua sha được thực hiện trong một phòng khám.
Các học viên sẽ được áp dụng dầu vào vùng của cơ thể đang được điều trị, cho phép các bác sĩ chuyên khoa để di chuyển các công cụ trên da trơn tru hơn.
Người học viên gua sha sẽ bấm công cụ vào cơ thể một cách mượt mà, đột quỵ công ty theo một hướng. Nếu gua sha đang được thực hiện ở mặt sau, hoặc mặt sau của chân, một người có thể cần phải nằm úp mặt xuống trên bàn massage.

Lấy đi

Cạo gió được sử dụng để điều trị một loạt các bệnh và rối loạn, nhưng nghiên cứu đã chỉ được thực hiện trên một số lượng nhỏ các điều kiện y tế cụ thể. Thêm bằng chứng là cần thiết để xác nhận liệu gua sha là một điều trị hiệu quả.
Cạo gió dường như không có bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng, nhưng nó có thể gây đau đớn cho một số người. Một người dự định sẽ có gua sha nên chắc chắn rằng họ đi đến một bác sĩ có kinh nghiệm.

Tuesday, July 21, 2015

Bệnh trĩ rất thường gặp và có thể ngăn chặn và chữa trị

Bệnh trĩ là một chủ đề nóng trên mạng, và có lẽ bởi vì nó đang rất phổ biến.
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ báo cáo rằng "trĩ" là vấn đề sức khỏe hàng đầu và có xu hướng tăng tại Hoa Kỳ, thống kê vào năm 2012 thấy hầu hết mọi người - lên đến 75 phần trăm - đã bị ảnh hưởng bởi bệnh trĩ tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ, theo Viện nghiên cứu Y tế Quốc gia Hoa Kỳ.
Bệnh trĩ là tĩnh mạch bị sưng căng phồng và viêm ở trực tràng hay hậu môn. May mắn thay, có một số cách để điều trị bệnh trĩ và xoa dịu nỗi đau, ngứa hoặc các triệu chứng khác có thể gây ra.
Tình trạng khó chịu thường ảnh hưởng đến người lớn từ 45-65 và trĩ thường là do tăng áp lực trong các tĩnh mạch hậu môn. Béo phì và ít vận động đóng một vai trò ở những người phát triển bệnh trĩ. Mang thai và sinh đẻ cũng có thể làm tăng nguy cơ sa búi trĩ ở phụ nữ.
Khi trĩ được xác định, có nghĩa chúng xảy ra bên trong trực tràng (trĩ nội) hoặc gần lỗ hậu môn (trĩ ngoại).
Thường không thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được ở những người có trĩ nội. Nhưng áp lực tăng lên trong quá trình chuyển động của ruột và táo bón có thể gây ra bệnh trĩ chảy máu và đôi khi đẩy búi qua lỗ hậu môn gây ra sa búi trĩ.
CHI TIẾT ĐỌC TẠI:

Monday, July 20, 2015

Sơ cứu ban đầu

Viêm dạ dày

Viêm dạ dày! Thường do vi rút, thức ăn nhiễm vi khuẩn hoặc ký sinh trùng...ngưng ăn trong vài giờ, uống nhiều chất lỏng, ăn uống trở lại dần dần...

Bỏng

Bỏng! Nốt bỏng nhỏ thường lành mà không cần điều trị thêm. Có thể chữa lành với những thay đổi sắc tố trên da, có nghĩa là khu vực chữa lành có thể có một màu sắc khác với da xung quanh...

Ngộ độc

Ngộ độc! Nhiều trường hợp có các dấu hiệu và triệu chứng giống ngộ độc, bao gồm cả động kinh, say rượu, đột quỵ...nếu nghi ngờ ngộ độc, hãy gọi cho trợ giúp y tế trước khi đưa ra bất cứ điều gì...

Ngộ độc thực phẩm

Ngộ độc thực phẩm! Tất cả các loại thực phẩm tự nhiên chứa một lượng nhỏ vi khuẩn, xử lý thực phẩm không tốt, nấu ăn không đúng hoặc lưu trữ không đảm bảo có thể dẫn đến vi khuẩn nhân lên với số lượng đủ lớn để gây bệnh...

Xước giác mạc

Xước giác mạc! Thường liên quan đến bụi, cát, dăm gỗ, hạt kim loại...hãy rửa bằng nước sạch, đừng trà mắt vì có thể tổn thương thêm, không cố gắng loại bỏ dị vật...


Read more: http://www.dieutri.vn/socuu.htm

Điều trị bệnh lý

Cây dầu rái trắng

Cây dầu rái mọc hoang và được trồng nhiều ở Việt Nam, nhưng nhiều nhất ở miền trung Trung bộ, miền nam Trung bộ, có mọc cả ở Nam bộ, từ ven biển đến núi cao, sự phân bố lên tới những nơi cao 500-600m.

Cây phù dung

Cây phù dung mọc hoang và được trồng khắp nơi ở Việt Nam để làm cảnh. Còn được trổng tại các nước Trung Quốc, Philipin, Nhật Bản, Ân Độ.

Cây niệt gió

Người ta dùng lá hoặc rẽ cây này. Lá hái vào mùa hạ. Rễ hái vào mùa thu, đông hay đầu mùa xuân. Hái về phơi hay sấy khô để dành mà dùng.


Read more: http://www.dieutri.vn

BỆNH TRĨ

Một vài chiến lược đơn giản có thể giúp làm giảm đau và rắc rối liên quan đến các búi trĩ phình to khó chịu.
Bệnh trĩ có tỷ lệ mắc bệnh rất lớn. Nhiều phụ nữ chỉ có đợt bệnh trĩ khi mang thai. Nhưng đến tuổi trung niên, bệnh trĩ thường trở thành liên tục. Ở tuổi 50, khoảng một nửa số người đã trải qua một hoặc nhiều triệu chứng của bệnh trĩ, trong đó bao gồm đau, ngứa, chảy máu trực tràng, và có thể sa búi trĩ (trĩ nhô ra qua ống hậu môn). Mặc dù bệnh trĩ hiếm khi nguy hiểm, nhưng nó có thể tái phát và đau đớn. May mắn thay, có rất nhiều biện pháp có thể làm để khắc phục.
Bệnh trĩ là gì?
Xét ở một khía cạnh, mọi người đều có bệnh trĩ, búi trĩ là các cụm tĩnh mạch nằm ngay dưới niêm mạc bao phủ phần thấp nhất của trực tràng và hậu môn. Hầu hết các vấn đề về trĩ phát triển khi những mạch máu này sưng và căng phồng, như giãn tĩnh mạch ở chân. Bởi vì các mạch máu đều phải có lực hấp dẫn để máu tiếp tục trở về tim, vì vậy, một số người tin rằng trĩ là một phần của cái giá phải trả cho động vật đứng thẳng.
Trĩ nội xảy ra ở vùng thấp trực tràng, và trĩ ngoại phát triển dưới da xung quanh hậu môn. Trĩ ngoại khó chịu nhất, vì da phủ bị kích thích và va chạm. Nếu cục máu đông hình bên trong búi trĩ ngoại, đau có thể đột ngột và nghiêm trọng. Có thể cảm thấy hoặc nhìn thấy một khối u xung quanh hậu môn. Các cục máu đông thường tiêu đi, để lại mô da dư thừa có thể ngứa hoặc bị kích thích.
Trĩ nội thường không đau, thậm chí khi gây ra chảy máu. Có thể thấy máu đỏ tươi trên giấy vệ sinh hoặc nhỏ giọt vào bồn vệ sinh. Trĩ nội cũng có thể bị sa, hoặc ra ngoài hậu môn gây ra một số vấn đề tiềm ẩn. Khi trĩ nhô ra, có thể một lượng nhỏ các chất nhầy và các hạt phân nhỏ theo ra, có thể gây ra kích thích ngứa. Cố gắng lau liên tục để giảm ngứa có thể làm trầm trọng thêm vấn đề.
Một người có thể có trĩ nội, trĩ ngoại hoặc cả hai.
CHI TIẾT XEM TẠI:

Read more: http://www.dieutri.vn/dongduoc/7-7-2015/S7076/Benh-tri-va-bien-phap-dieu-tri-tot-nhat.htm

Thursday, July 16, 2015

Điều trị bệnh trĩ tại cơ sở y tế

Một số bệnh trĩ không thể quản lý với phương pháp điều trị tại nhà, hoặc vì các triệu chứng vẫn tồn tại hoặc vì bệnh trĩ nội đã sa xuống. May mắn thay, một số phương pháp điều trị xâm lấn tối thiểu có sẵn mà ít đau hơn so với loại bỏ trĩ truyền thống và cho phép phục hồi nhanh hơn. Các thủ tục này thường được thực hiện tại phòng của bác sĩ phẫu thuật hoặc phẫu thuật tại bệnh viện.
Thủ thuật trĩ. Thủ thuật điều trị bệnh trĩ thường được sử dụng là thắt vòng cao su, trong đó vòng nhỏ đàn hồi được đặt ở gốc búi trĩ. Vòng cao su thu nhỏ búi trĩ và các mô xung quanh, sau đó để vết sẹo khi nó lành. Phải mất 2 - 4 lần thực hiện thủ thuật trong sáu đến tám tuần để loại bỏ hoàn toàn các búi trĩ. Các biến chứng hiếm gặp bao gồm đau hoặc tức nhẹ, chảy máu và nhiễm trùng. Thủ thuật khác bao gồm laser hoặc hồng ngoại xơ hoá, và phẫu thuật lạnh. Tất cả các thủ thuật trên nguyên tắc tương tự như thắt vòng cao su nhưng không phải là khá hiệu quả trong việc ngăn ngừa tái phát. Tác dụng phụ và tái phát khác nhau ở các thủ thuật, do đó, tham khảo ý kiến bác sĩ về những gì tốt nhất cho mỗi tình huống.
Phẫu thuật trĩ. Có thể cần phải phẫu thuật nếu có búi trĩ lớn nhô ra, trĩ ngoại liên tục có triệu chứng, hoặc trĩ nội tái diễn mặc dù thắt vòng cao su. Trong phẫu thuật truyền thống, rạch đường nhỏ trên khắp cả trĩ nội và trĩ ngoại và các mạch máu thủ phạm sẽ bị loại bỏ. Thủ tục này chữa lành 95% các trường hợp và có tỷ lệ biến chứng thấp. Thực hiện thủ thuật này có thể không phải ở lại bệnh viện qua đêm, nhưng nó đòi hỏi phải gây mê toàn thân, và hầu hết các bệnh nhân cần dùng thuốc giảm đau sau đó. Bệnh nhân thường có thể trở lại làm việc sau 7 - 10 ngày. Mặc dù có những hạn chế, nhiều người xin được thực hiện vì là một giải pháp dứt khoát về bệnh trĩ.
Kẹp ghim. Một lựa chọn mới hơn phẫu thuật truyền thống được gọi là ghim búi trĩ. Thủ thuật này chỉ định cho trĩ chảy máu hay trĩ nội bị sa. Các bác sĩ phẫu thuật sử dụng thiết bị ghim để giữ chặt búi trĩ ở vị trí bình thường. Giống như phẫu thuật trĩ truyền thống, ghim trĩ được thực hiện dưới gây mê toàn thân như phẫu thuật, nhưng nó ít đau và hồi phục nhanh hơn. Nó đau hơn thắt vòng cao su và có tác dụng phụ nhỏ hơn, nhưng nó chỉ cần thực hiện một lần; khả năng tái phát trĩ cũng ít hơn nhiều. Nghiên cứu hiện đang so sánh cách ghim với thắt vòng cao su và phẫu thuật như là điều trị đầu tay cho trĩ nội.



Read more: http://www.dieutri.vn/dongduoc/7-7-2015/S7076/Benh-tri-va-bien-phap-dieu-tri-tot-nhat.htm

Điều trị tại nhà

Hầu hết các triệu chứng bệnh trĩ được cải thiện đáng kể với các biện pháp đơn giản tại nhà. Để điều trị và ngừa bùng phát đau, chảy máu và sa búi trĩ, hãy thử những điều sau đây.
Dùng viên trĩ Trixbye. Viên trĩ Trixbye có tác dụng tỏ ra vượt trội nhất trong nhóm sản phẩm thường được chỉ định cho những người bệnh trĩ. Viên trĩ Trixbye nhanh chóng làm giảm đau, giảm chảy máu và sa búi trĩ. Một số sản phẩm khác cũng có thể được chỉ định để giảm các triệu chứng bệnh trĩ, nhưng tác dụng kém hiệu quả hơn.
Dùng nhiều chất xơ. Thêm chất xơ vào chế độ ăn từ thức ăn, chất xơ bổ sung (như Metamucil, Citrucel, hoặc Fiber Con), hoặc cả hai. Cùng với dịch thích hợp, chất xơ làm mềm phân và làm cho đi tiêu dễ dàng, làm giảm áp lực bệnh trĩ. Những thức ăn giàu chất xơ bao gồm bông cải xanh, đậu, lúa mì và cám yến mạch, các loại thực phẩm ngũ cốc nguyên hạt, và hoa quả tươi. Bổ sung chất xơ giúp giảm chảy máu trĩ, giảm viêm, giảm phồng to búi trĩ và giảm kích ứng. Một số phụ nữ thấy đầy hơi hoặc khí khi sử dụng chất xơ. Hãy bắt đầu từ từ, và dần dần tăng lượng chất xơ đến 25 - 30 gam mỗi ngày. Ngoài ra, tăng lượng nước uống.
Tập thể dục. Tập thể dục vừa phải, chẳng hạn như đi bộ nhanh 20 - 30 phút mỗi ngày, có thể giúp kích thích chức năng của ruột.
Hãy đi tiêu đúng thời gian. Khi cảm thấy buồn đi tiêu, đi ngay lập tức; không chờ đợi đến một thời điểm thuận tiện hơn. Trì hoãn đi tiêu có thể dẫn đến tăng áp lực và căng thẳng. Ngoài ra, sắp xếp thời gian mỗi ngày, chẳng hạn như sau một bữa ăn, ngồi trên bồn vệ sinh một vài phút. Điều này có thể giúp thiết lập thói quen đi tiêu thường xuyên.
Bồn tắm Sitz. Một phòng tắm sitz là một bồn tắm nước ấm cho mông và hông (tên xuất phát từ tiếng Đức "sitzen," có nghĩa là "ngồi"). Nó có thể làm giảm ngứa, kích ứng, và co thắt cơ vòng. Hiệu thuốc bán chậu nhựa nhỏ phù hợp, hoặc có thể ngồi trong bồn tắm với một vài cm nước ấm. Hầu hết các chuyên gia khuyên nên tắm sitz 20 phút sau mỗi lần đi tiêu và hai hoặc ba lần một ngày. Hãy vỗ nhẹ nhàng khu vực hậu môn sau đó để làm khô; không chà xát hoặc dùng vật lau cứng. Cũng có thể sử dụng máy sấy tóc để làm khô khu vực đó.
Tìm kiếm sự cứu trợ tại chỗ. Kem trĩ chứa gây tê cục bộ có thể tạm thời làm dịu cơn đau. Các loại kem, thuốc đạn có chứa hydrocortisone cũng có hiệu quả, nhưng không sử dụng nó trong hơn một tuần tại một thời điểm, bởi vì chúng có thể gây teo da. Một túi nước đá nhỏ đặt vào vùng hậu môn một vài phút cũng có thể giúp giảm đau và sưng. Cuối cùng, ngồi trên đệm chứ không phải là một bề mặt cứng giúp giảm sưng trĩ và ngăn chặn hình thành trĩ mới.
Hãy xử trí các cục máu đông. Khi bệnh trĩ ngoại tạo thành cục máu đông, đau có thể dữ dội. Nếu cục máu đông có mặt lâu hơn hai ngày, áp dụng phương pháp điều trị triệu chứng tại nhà trong khi chờ đợi cục máu đông tư tiêu đi. Nếu cục máu đông gần đây, có thể được phẫu thuật cắt bỏ hoặc rút cục máu đông khỏi tĩnh mạch, được thực hiện bởi một bác sĩ phẫu thuật.

Chẩn đoán bệnh trĩ

Bệnh trĩ thường có thể được chẩn đoán đơn giản từ lịch sử y tế của bệnh nhân và khám thực thể. Trĩ ngoại thường rõ ràng, đặc biệt là nếu một cục máu đông đã hình thành. Bác sĩ có thể kiểm tra trực tràng xem có máu trong phân. Cũng có thể kiểm tra nội soi ống hậu môn. Nếu có bằng chứng chảy máu trực tràng hoặc máu vi thể trong phân, soi đại tràng sigma có thể được thực hiện để loại trừ các nguyên nhân khác gây chảy máu, như polyp đại trực tràng hoặc ung thư, đặc biệt là ở phụ nữ trên 50 tuổi.



Read more: http://www.dieutri.vn/dongduoc/7-7-2015/S7076/Benh-tri-va-bien-phap-dieu-tri-tot-nhat.htm

Nguyên nhân gây ra bệnh trĩ

Chính xác những gì gây ra bệnh trĩ hiện đang bị chia rẽ bởi các chuyên gia, nhưng có lẽ một số cơ chế là tại nơi búi trĩ. Theo truyền thống, bệnh trĩ có liên quan với táo bón mãn tính, áp lực tăng trong quá trình chuyển động của ruột, và thời gian đi vệ sinh kéo dài - tất cả đều ảnh hưởng đến lưu lượng máu đến và đi ở khu vực hậu môn trực tràng, nó làm cho mạch máu bị giãn rộng và ứ máu. Điều này cũng giải thích tại sao bệnh trĩ thường gặp trong thai kỳ, khi tử cung phát triển to ra ép vào tĩnh mạch.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy bệnh nhân trĩ có xu hướng có ống hậu môn xơ cứng hơn lúc nghỉ, các cơ trơn của ống hậu môn có xu hướng thắt chặt hơn so với trung bình (ngay cả khi không căng). Táo bón làm tăng thêm tình trạng này, bởi vì áp lực căng trong chuyển động ruột làm tăng áp lực trong ống hậu môn, đẩy búi trĩ và các cơ vòng hậu môn. Cuối cùng, các mô liên kết hỗ trợ và giữ búi trĩ ở đúng vị trí có thể suy yếu theo tuổi tác, gây ra búi trĩ phồng căng và sa búi trĩ.

Bệnh trĩ là gì?

Xét ở một khía cạnh, mọi người đều có bệnh trĩ, búi trĩ là các cụm tĩnh mạch nằm ngay dưới niêm mạc bao phủ phần thấp nhất của trực tràng và hậu môn. Hầu hết các vấn đề về trĩ phát triển khi những mạch máu này sưng và căng phồng, như giãn tĩnh mạch ở chân. Bởi vì các mạch máu đều phải có lực hấp dẫn để máu tiếp tục trở về tim, vì vậy, một số người tin rằng trĩ là một phần của cái giá phải trả cho động vật đứng thẳng.
Trĩ nội xảy ra ở vùng thấp trực tràng, và trĩ ngoại phát triển dưới da xung quanh hậu môn. Trĩ ngoại khó chịu nhất, vì da phủ bị kích thích và va chạm. Nếu cục máu đông hình bên trong búi trĩ ngoại, đau có thể đột ngột và nghiêm trọng. Có thể cảm thấy hoặc nhìn thấy một khối u xung quanh hậu môn. Các cục máu đông thường tiêu đi, để lại mô da dư thừa có thể ngứa hoặc bị kích thích.
Trĩ nội thường không đau, thậm chí khi gây ra chảy máu. Có thể thấy máu đỏ tươi trên giấy vệ sinh hoặc nhỏ giọt vào bồn vệ sinh. Trĩ nội cũng có thể bị sa, hoặc ra ngoài hậu môn gây ra một số vấn đề tiềm ẩn. Khi trĩ nhô ra, có thể một lượng nhỏ các chất nhầy và các hạt phân nhỏ theo ra, có thể gây ra kích thích ngứa. Cố gắng lau liên tục để giảm ngứa có thể làm trầm trọng thêm vấn đề.
Một người có thể có trĩ nội, trĩ ngoại hoặc cả hai.

Điều trị búi trĩ phình to khó chịu

Một vài chiến lược đơn giản có thể giúp làm giảm đau và rắc rối liên quan đến các búi trĩ phình to khó chịu.
Bệnh trĩ có tỷ lệ mắc bệnh rất lớn. Nhiều phụ nữ chỉ có đợt bệnh trĩ khi mang thai. Nhưng đến tuổi trung niên, bệnh trĩ thường trở thành liên tục. Ở tuổi 50, khoảng một nửa số người đã trải qua một hoặc nhiều triệu chứng của bệnh trĩ, trong đó bao gồm đau, ngứa, chảy máu trực tràng, và có thể sa búi trĩ (trĩ nhô ra qua ống hậu môn). Mặc dù bệnh trĩ hiếm khi nguy hiểm, nhưng nó có thể tái phát và đau đớn. May mắn thay, có rất nhiều biện pháp có thể làm để khắc phục.


Read more: http://www.dieutri.vn/dongduoc/7-7-2015/S7076/Benh-tri-va-bien-phap-dieu-tri-tot-nhat.htm

Bệnh trĩ

Bệnh trĩ thường có thể được chẩn đoán đơn giản từ lịch sử y tế của bệnh nhân và khám thực thể. Trĩ ngoại thường rõ ràng, đặc biệt là nếu một cục máu đông đã hình thành. Bác sĩ có thể kiểm tra trực tràng xem có máu trong phân. Cũng có thể kiểm tra nội soi ống hậu môn. Nếu có bằng chứng chảy máu trực tràng hoặc máu vi thể trong phân, soi đại tràng sigma có thể được thực hiện để loại trừ các nguyên nhân khác gây chảy máu, như polyp đại trực tràng hoặc ung thư, đặc biệt là ở phụ nữ trên 50 tuổi.


Read more: http://www.dieutri.vn/dongduoc/7-7-2015/S7076/Benh-tri-va-bien-phap-dieu-tri-tot-nhat.htm

Wednesday, July 1, 2015

Kim ngân - Cây thuốc chữa mụn nhọt, rôm sảy

Kim ngân - Cây thuốc chữa mụn nhọt, rôm sảy

Viên trĩ Trixbye - Giảm đau, chảy máu và sa búi trĩ

Viên trĩ Trixbye - Giảm đau, chảy máu và sa búi trĩ

Viên trĩ Trixbye - Giảm đau, chảy máu và sa búi trĩ

Viên trĩ Trixbye - Giảm đau, chảy máu và sa búi trĩ

Bồ công anh - Cây thuốc chữa tắc tia sữa, sưng vú

Bồ công anh - Cây thuốc chữa tắc tia sữa, sưng vú

Duyên hồ sách - Cây thuốc chữa ho, có đờm

Duyên hồ sách - Cây thuốc chữa ho, có đờm

Cửu lý hương - Cây thuốc điều kinh

Cửu lý hương - Cây thuốc điều kinh

Mít - Cây thuốc lợi sữa, an thần

Mít - Cây thuốc lợi sữa, an thần

Bọ mẩy - Cây thuốc chữa sốt phát ban

Bọ mẩy - Cây thuốc chữa sốt phát ban

Thược dược (bạch thược, xích thược) - Cây thuốc trừ đờm, chữa ho

Thược dược (bạch thược, xích thược) - Cây thuốc trừ đờm, chữa ho

Thiên lý - Cây thuốc chữa sa dạ con, lòi dom

Thiên lý - Cây thuốc chữa sa dạ con, lòi dom

Ô rô - Cây thuốc chữa chảy máu cam, tiểu tiện ra máu

Ô rô - Cây thuốc chữa chảy máu cam, tiểu tiện ra máu

Nhội - Cây thuốc chữa khí hư, trùng roi âm đạo

Nhội - Cây thuốc chữa khí hư, trùng roi âm đạo

Wednesday, December 17, 2014

Medical examination and medical diagnostics

Examination is an important factor, perhaps the main stage of the work of the therapist because it pretty much decide the success or failure of the treatment works: Working doctor may do good new findings are true and complete to the symptoms can be an accurate diagnosis and adequate, then the prognosis is that the new regulations, treatment and prevention for correctness.
This is a work:
Science: In addition to medical knowledge that all physicians are required to have full, there must be a listing of the man is a dialectical unity in which each department are organically related to each other, so not only single examination department that patients should always check the entire body.
Technique: Must regularized examination and examination techniques to detect it properly symptoms (eg, to hear the sound unusual in heart, lung, spleen or liver touching peek out from costal margin, or when type tendon reflexes ...)
None of the show, it was a work:
Politics: How meticulously thorough medical examination by a physician in addition to helping physicians detect disease properly reinforces the confidence of stable patients thought their pessimistic fears, giupho confidence in treatment in the cure this: essential elements for the treatment to be good.
Today, despite the progress and development of preclinical methods, the role of the clinical examination is important because it gives the direction from which the diagnostic designated as preclinical tests required, avoid making widespread or vice versa does not do the necessary tests. So medical examination should be carried out like?
How to conduct medical examinations
place of examination
It should be:
Clean, fresh air but avoid drafts.
Warm, especially in winter.
There is enough light.
Discreet, especially those where women used to examine patients.
means
In addition to the furniture necessary for the physician and patient visits to the sick bed is examined, where care needs to be equipped with a minimum of means:
Medical stethoscope.
Sphygmomanometer.
Tools for pressing the tongue: to visit the sick throat.
Reflex hammer and needle to neurological examination.
How fingers or gloves (doigtier) Rubber: for rectal or vaginal examination when necessary. If you have an extra flashlight to check the pupillary reflexes needed the better.
physician
It should be noted to dress: clothes dirty, angry black collar, long fingernails dirty, unkempt hair will reduce the confidence of the patient to the physician lot.

Attitudes need to intimate, warm to the patient at risk of exposure, easy revealed the secret of his problems. Avoid the attitude of patients misunderstand the physician "grace" for them.
When asked patients to use straightforward language, avoid using the word medicine that the disease is difficult to know (royal sure, hematuria ...) and especially patience to exploit the subjective symptoms of the disease, if necessary do not hesitate to ask questions or to change the way the questions to capture all of the patients.
When the doctor should have gentle style, meticulous, avoid rough, avoid sick day or more without the need for the most seriously ill. The physician, physician especially men, need to pay attention to the nature of the woman shy to ask and how to avoid the most indecent manner doctor too revealing, self-injure the patient's women, so they do not say what needed to diagnose and treat.
Upon receipt of the required objective symptoms and caution: there should be no prejudice before, especially for older patients, physicians are more likely to have thought the old disease recurrence. Need to appreciate the symptoms, especially the subjective symptoms of the disease: the identification, analysis, evaluation of symptoms that must be based on a scientific basis.
Be careful while talking with patients about their condition; in general, to think before talking to did not say what issues can make them fear, panic or pessimism with their patients; to explain to uplifting, thought for their stability assured treatment in the healing message.
For the families of patients, we can tell the truth in a certain range, that is, depending on the problem, depending on the person's relationship to the patient.
patients
Should be examined in a comfortable position. If health conditions permit, the patient should check the way to go.
Should reveal the need to check. Best of all, the sick men wearing only underwear when a medical examination if place to ensure adequate warmth. The sick woman should reveal part: chest, abdomen, and limbs ... In winter, Notes prompts the patient removed because scarf scarves can hide some very important issues in the neck: tumors borders, the jugular vein float, the cost-neck scar ...
Content doctor
After asking technical part history (see above), the doctor usually conducted in three parts:
Full body examination.
Check each department.
Check more waste.
Body Check
It should be observed:
Gait, standing by the patient:
After first contact with the patient, we can immediately notice a few ways and located, walking, standing by the patient immediately suggests to us a direction of certain diseases or syndromes:
How is "trigger", facing the dark side in patients with meningeal disease.
How high is the top or half-recumbent (Fowler position) of the patients dyspnea.
Getting stiff, body like a log of people with Parkinson's disease.
How di "grass" a convulsive hand to the chest of the patient paralyzed from the waist, can cramp.
How to walk hugging the right upper quadrant of the liver abscess patients.
The spirit of the disease:
Noting see patients in the state:
Awake: The disease can be patient self-reports, statements and answers are obvious questions of the physician.
Delirium: the patients are not identified and does not answer the question correctly, not only that the patient was in a state of panic, mumble, even when running or destroying wild. It is the mental condition of the patient:
Sort entered hepatic coma.
Any fever for what reasons, but the most common in our country is fierce bout of malaria.
Mental Illness.
Coma: the disease is not identified nor answer my question.
But here the patients do not panic, do not mumble but left more or less lost contact with the external environment, even in the case of coma:
The patient does not know the pain when pinched.
Do not swallow the water poured into their mouths.
Loss of corneal reflex.
Coma is a very serious incident, the consequences of infectious diseases and poisoning of many parts, should be examined carefully and ask discovered why.
General shape:
Need to identify the disease:
- Slim or fat, skinny means: The gaunt, sunken cheeks, the facial bones protruding, especially cheekbones. Ribs, scapula highlighted. Flat belly, belly skin commandments rang. Total weight less than the average weight of 20% (with an average weight of feces than 100 meters of height; eg, a 1m62 high, the average weight of 62 kg).
- Slim common in these cases:
Undernutrition by: Eating a lack of quality or quantity. Eating enough but the department does not use digest and absorb, esophageal, pyloric stenosis, chronic bowel disease, chronic pancreatitis ...). Eating relative but not enough to meet the needs of the body increases due to overwork or disease. Chronic diseases: tuberculosis, liver cirrhosis, cancer ... Some endocrine diseases: diabetes, Basedow.
- Obesity means:
Face swollen, bulging cheeks, chin droop. Stock usually not seen retracted. Limbs rounded and grooved. Abdominal skin with thick layers of fat and sagging to make the abdomen. Total weight is higher than the average weight of 15%.
- Fat normally are:
Nutritional Causes: The most common, especially when eating more and less active. Endocrine causes: Women of all age kinh.Nam world after losing testicles. Cushing's disease caused by pituitary or adrenal glands due to intensity.
Causes Mental: a sometimes occur due to strong mental trauma.

- High or low. Need to pay attention to two cases of disease:
The medium to medium high oversized alone or in combination added to the first phenomenon and expenses: this is huge disease (gigantisme), a disease of the pituitary gland.
The medium low and too small: as well as a case of pituitary disease, patients calculation (infantilisme).
The balance between these parts: often there is a certain balance between the parts of the body, head and limbs. In some pathological cases, we find that balance disappear:
To early disease (hydrocephalie): the first is to not match the entire body.
Acromegaly (acromegalie): head and especially the hands and feet are oversized, not commensurate with the expenditure and body rest.
Teo an amputation, a chi chi or both symmetric: common in neurological diseases such as amyotrophic the fiber column (sclerose laterale). Flute marrow disease (syringommylelie) and is the most common sequelae of poliomyelitis children (PAA). But when the patient's body:
Both parties chest unbalanced by a party effusion or pneumothorax as stretch or vice versa due to pleurisy thick and sticky traction as falling.
The color of skin and mucosa:
Some medical conditions shown on the color of the skin and mucous membranes such as:
- Skin and mucosal cyanosis: demonstrates the lack of oxygen normally found in:
Some congenital heart disease, chronic pulmonary heart disease and heart failure cases.
The lung disease causing breathing difficulty levels: bronchopneumonia in children, pneumothorax severe asthma.
The airway disease causing suffocation bar: bar almost paralyzed by diphtheria.
In these diseases, cyanosis cases appear in the environment, in the human eye diseases, acute cyanosis new to the place, even when the whole body.
In contrast, in some other disease, cyanosis confined to one area, for example in:
Inflammation of the arteries: cyanosis in the toes, fingers, sometimes the feet, hands or even an amputation so that the dominant artery.
Capillary vascular disorders: cyanosis all extremities especially the fingers.
- Skin and mucous membranes pale. Status pale sometimes evident on the countenances of the disease, but the secret to looking at the lining of the eyes, mucous membrane of mouth, tongue or hands feet. It is shown clinical acute or chronic anemia due to many reasons.
- Yellow skin and mucous membranes: the skin of patients with various forms of gold:
Golden straw: in cancer.
Yellow belly: in severe anemia.
Bright yellow more or less: by drinking plenty quinacrin or santonon. Sometimes there is the yellow pigment in the palms of the hands and feet.
In this situation, the current situation can only yellow skin or the palms, soles of the feet. By contrast in jaundice. Gold status can present both in the lining eyes, mouth, tongue: these are symptoms of a very valuable suggestions diagnosis, because yellow is an almost nonspecific symptoms of hepatobiliary system.
- Skin and mucosal gray (m LANO ermie): this is not a normal case of tanned outdoor workers, but also a case of having the disease pathology:
Addison's disease (Addison's disease).
Accumulation of melanin (Melannose de Richl).
- A pale skin, if that area has more cool feeling stinging pain when we must think carefully and find the cause of style.
Mucocutaneous condition:
Need findings:
- The skin lesions: detection purposes other skin diseases identified the need to pay attention to the scarring sequelae of certain diseases in the history of the disease and surgery, because the lesions are resolving It is the cause of the current turmoil as:
Scars do think music colon atopic workers.
Scars "moved climb" (shingles) on the chest, may be the cause of pain intercostal nerves now.
Scars caused by bullets in the chest towards the cause was thought to cough up blood now.
- The bleeding note: often a manifestation of blood diseases and expression in many forms:
Arrays ecchymosis (ecchymose).
Ban bleeding (purpura).
Dot bleeding (petechre).
- The exhaustion of water. Represented by:
Dry skin, warning rang even have patches of psoriasis.
The existence of the leopard skin wrinkles ssau.
Often seen in the following cases:
Severe diarrhea or diarrhea level takes a long time.
Severe nausea.
Fever, infection lasts.
- Status fluid: represented by: compliance with concave publications (soft line) or without pressing concave (hard line), to detect the face (especially the eyelids), in the leg ankle (look for signs of publications concave side of the tibia and ankle).
Often seen in the following cases:
Level or chronic glomerulonephritis, nephrotic patients grease.
heart Failure
Cirrhosis.
Undernutrition.
Be wet beriberi.
Artery or vein inflammation of lymph nodes.
System Status and hair coat:
There may be pathological phenomenon as follows:
- Too many men in fur or hair growth in places where no ordinary woman (beard): one case of adrenal disease intensity (Cushing).
- No hair growth or hair loss, hair loss. Expression of:
A condition can be debilitating disease caused by an infection or poisoning.
A spot disease of the skin and scalp.
An endocrine disorders: ovarian disorders, thyroid insufficiency.
Check each department
Often the doctor immediately should stay patient department, the question carefully braided initially associated with the review body will help us think about organ disease.
Then check the other parts, the first is the part related to physiological or anatomical parts with thin, then visit the rest of the parts and should go sequentially from top to bottom (top , neck, chest, abdomen, limbs ...) in order not to miss.
Back to search contents of each department, we do not speak carefully here, because there are separate articles in the latter case, we only emphasize the issues that need attention in every department including:
At the top:
In addition to comments skin, mucosa and skull, hair mentioned above, check:
12 cranial nerves (the program will tell nerve), especially if the person has a mental illness experience.
Teeth, tongue, throat: the program will tell digestion.
In stock:
Attention to:
Thyroid.
The scar in the neck or neck scar colon music.
Jugular vein: OC veins stand to be a manifestation of the right heart failure.
In the chest:
It should be observed:
Morphology and the operation of the chest to the rhythm of breathing.
The ribs and intercostal spaces.
Check the heart and lungs.
Do not forget the two breast and axillary lymph nodes.
In the stomach:
Morphology and activity of the abdominal wall under the breath.
Check belly general (discussed in the first chapter of) and the abdominal viscera.
Attention to the rectal and vaginal is a simple gesture made mandatory for all patients with pathological findings in the abdomen, especially in the lower abdomen.
In men, do not forget to check the penis, scrotum sex, spermatic cord, and the hernia hole.
In the limbs and spine:
Attention to:
Malformation or disfigurement of the limbs and spine by:
The spine is curved, hunchback or pure: a harsh pain in the spine, especially at the base of the spine to the wood, to make us think of a vertebral tuberculosis.
Sequelae of fractures and an old disease of bone.
The joints: one or more swollen joints, to make us think of arthritis as:
Rheumatic fever.
Chronic arthritis.
Lao joints.
Purulent inflammation of the joints.
The fingers and nails: nail "watch glass" means nail cupped round like a watch glass, is a manifest need attention. The phenomenon that at first alone, later combined with additional fingers to friends as drumstick to a symptom called Hippocrates finger instance:
Some congenital heart disease (disease Fallot).
Heart disease - chronic lung.
Chronic infections in organ, common in subacute endocarditis Oxle and chronic lung abscess or bronchiectasis, chronic infections.
Some cases of lung tumors: Pierre Marie syndrome.
Cholestatic cirrhosis Primary: Hannot disease.
After careful examination of the body and parts combined with thoughtful questions disease, we must never ending clinical examination by checking the weather and some waste can translate.
Check the weather Waste
This is only a preliminary review of clinical, should be supplemented by the results of preclinical testing of these substances. However, the preliminary remarks are great because it gives us right at the bedside of the factors necessary for diagnosis.
Urine:
Yellow slots: define for us a jaundice.
Red: We identified patients for blood in the urine.
Coating: could be a urinary tract infection.
Analysis:
Red blood slimy nose: dysentery syndrome.
Black as coffee grounds: suggest a gastrointestinal bleed.
sputum:
There rays and blood clots in the blood or hemoptysis.
Pus in the lung abscess.
Purulent sputum chocolate in lung abscess caused by amoeba.
Vomit:
You need to consider the composition and color vomit.
In the spirit as for the more waste, we can get some volume in the probe tips, depending on the clinical picture.
There pleural effusion or pericardial: Amniocentesis right pleural or pericardial.
Ascites, to tapping ascites.
Meningeal syndrome: to tapping cerebrospinal water.
Like the more waste, what this translates immediately with preliminary remarks on the bed, was able to make the correct diagnosis:
Amniocentesis pleural pus, making diagnosis even a purulent pleurisy; if pus-colored chocolate makes me think of the cause by amoeba.
Amniocentesis cerebrospinal see turbid water, make a diagnosis as soon as meningitis. By examined above, there are cases:
It can be diagnosed immediately, but not in sufficient detail.
But they have not even been able to have diagnosed that only a certain direction. Therefore need to use additional methods of subclinical.
The method of subclinical
The progress of science in all fields has contributed to the development of sub-clinical methods to help medical diagnosis more certain. The phuoong it more convenient, more accurate and sophisticated. The probe can subclinical against 4 types of purposes:
To identify morphological
Often, it is the method:
Radiology; projectors and shoot, shoot often or dye.
Soi organs.
Radioisotopes.
To identify lesions
This is the viscera biopsy (biopsy or better blind biopsy under the control of the eye) to remove a sample held the test.
Micro: find the lesion pathology, diagnosis is often worth the surest.
Biochemical model was applied in countries with scientific progress.
To find pathogens
Pathology tests mentioned above as well as a method to find the causative agent (biopsy of an enlarged lymph nodes for pathogens as cancer or tuberculosis, depending on the pathological anatomy with tumor cells or international giant cells of tuberculosis).
There's also another method to directly or indirectly:
Bacteria, viruses.
Parasite.
Mushrooms ...
In the humoral and more waste.
To probe the function
A large part of this approach is that the biochemical tests. Also the method used machinery (due to underlying metabolic exploration of thyroid function to probe ECG heart function ...) and more recently using the radioisotope method.
The necessity of subclinical
So far, no one has dared to deny the necessity of the method for practical clinical approach of this method of diagnosis helps to find:
It's accurate.
It's full.
And especially very early, when the disease is diagnosed while still in the preclinical period. But it is inevitable downside.
Disadvantages of subclinical
The validity of the method of subclinical depends on many factors:
Qualities of machinery or chemicals used in it.
How to obtain and ensure specimens from disease prevention to the test site.
Nheim accountability and professional competence of testing. So the method for preclinical us:
We need not rely on the clinical examination is indicated to the right to avoid making unnecessary spill has wasted chemicals, machinery and labor power of the test, just wasting disease is the blood thnah and blood of patients with fatigue when patients do not need.
Based on clinical need to identify these results, ie to compare the results of preclinical and clinical situations: if not appropriate then check again, both clinical and subclinical if necessary then repeat the test for subclinical.
In this way we obtain the correct documentation of clinical and subclinical, the factors necessary for us to go to the section diagnosis.
diagnose
The document clinical and subclinical above should be incorporated into the syndrome: a person may have one or more symptoms. Based on the syndrome that we will make the definitive diagnosis, differential diagnosis, diagnose the cause and assess prognosis.
In the diagnosis, need to respect some rules:
Must be based on the symptoms of the disease, clearly, clearly no one can deny, clinical and subclinical.
Consider first of all to those patients most often and must be based on the specific symptoms diagnostic value of this disease.
So try to find a diagnosis may include all of the symptoms and the patient's symptoms. If it can not be considered as new patients with 2 or 3 patients at the same time.
conclude
Diagnosis is a difficult task. Want to properly diagnose patients to get an attitude and preventive treatment appropriate, the physician should have:
Medical Knowledge fully comprehensive.
Thorough examination style, meticulous.
Scientific reasoning methods and dialectics.
The spirit of loving parents to their patients.

This is the fourth major requirement that each student must train yourself in the process in clinical practice.